Giành lại quyền kể từ các kho lưu trữ nhiếp ảnh thuộc địa

Trong những thập kỷ gần đây, công cuộc phi thực dân hóa các bảo tàng và kho lưu trữ đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu và giám tuyển châu Âu. Việc trưng bày các tác phẩm, hiện vật có nguồn gốc từ thời kỳ thuộc địa luôn là vấn đề gây tranh cãi, đặc biệt trong bối cảnh thông tin và tri thức ngày càng được phổ biến một cách bình đẳng trên toàn cầu.

Mặc dù các quốc gia châu Âu đã nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề và tiến hành nhiều nghiên cứu liên quan(1), những nhà nghiên cứu và giám tuyển từ các quốc gia từng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân vẫn chưa có một cách tiếp cận hệ thống đối với các kho lưu trữ này, bất chấp sự gia tăng của các hoạt động và triển lãm khai thác chúng.

Tại Photo Hanoi ’25, có tới ba triển lãm ảnh giới thiệu các tác phẩm từ nhiều kho lưu trữ khác nhau, trong đó hai triển lãm tập trung vào kho ảnh thời thuộc địa. Việc trưng bày những bức ảnh này đòi hỏi sự nhạy cảm với bối cảnh lịch sử và quan điểm của cộng đồng. Phần tiếp theo của bài viết sẽ đề xuất một số phương pháp nhằm hỗ trợ các giám tuyển địa phương tiếp cận và trưng bày nhiếp ảnh lưu trữ thời thuộc địa hiệu quả hơn, đồng thời tìm cách giành lại quyền kể những câu chuyện trong các bức ảnh này.

Làm rõ bối cảnh ra đời của những tấm ảnh

Khi đề cập đến các kho lưu trữ nhiếp ảnh, chúng ta không thể thay đổi những gì đã được chụp lại hay tư liệu hoá trong quá khứ. Các lựa chọn về bố cục, chủ thể và sự kiện đều do con người thực hiện trong một bối cảnh cụ thể, không thể được xem là sự đại diện khách quan cho quá khứ. Do đó, việc cho rằng một kho lưu trữ nhiếp ảnh – hay bất kỳ kho lưu trữ nào từ thời kỳ thuộc địa – có thể được phi thực dân hóa hoàn toàn là không thực tế. Điều tốt nhất chúng ta có thể làm là giành lại quyền chủ động trong việc kể chuyện về những bức ảnh. Một số bài nghiên cứu quốc tế cũng đã lựa chọn dùng thuật ngữ “tái định hình” thay cho “phi thực dân hóa” như một giải pháp thiết thực, nhấn mạnh cách tiếp cận kho lưu trữ qua nhiều góc nhìn mới, từ đó tôn lên những tiếng nói bị bỏ quên và công nhận các khía cạnh khác của lịch sử (2).

Khi tổ chức triển lãm, hãy bắt đầu bằng việc làm rõ góc nhìn thực dân trong các bức ảnh. Là sản phẩm của thời đại, các kho lưu trữ thời thuộc địa phản ánh sự bất cân bằng quyền lực và những thiếu sót cố hữu. Điều này giúp người xem hiểu rõ bối cảnh lịch sử cùng những thiên kiến trong hình ảnh.  

Xem xét và cập nhật thuật ngữ

Đa phần chúng ta đã quen sử dụng các thuật ngữ được hình thành từ thời kỳ thuộc địa, vô tình củng cố những sai lầm lịch sử qua cách viết. Để tăng tính tiếp cận và bao quát cho các kho lưu trữ cũng như cách trình bày về chúng, việc lựa chọn từ ngữ khi viết cần phù hợp với sự tiến bộ của xã hội và loại bỏ những định kiến sai lệch từ quá khứ.  

Trong các đoạn giới thiệu triển lãm gần đây, tôi đã loại bỏ hoàn toàn các thuật ngữ như Viễn Đông, Cận Đông hay Trung Đông—những khái niệm ra đời từ thời thực dân, ngụ ý châu Âu là trung tâm thế giới. Thay vào đó, tôi sử dụng các thuật ngữ địa lý trung lập như Đông Á, Đông Nam Á hay Tây Nam Á và Bắc Phi, vốn đang được các nhà nghiên cứu toàn cầu thúc đẩy và áp dụng rộng rãi.(2)

Hợp tác nghiên cứu và làm phong phú thêm các kho lưu trữ ảnh

Các kho lưu trữ ảnh không phải là những thực thể tĩnh. Chúng thay đổi theo thời gian—di chuyển, phân tách rồi tái hợp, được số hóa và bồi đắp thêm bởi các phát hiện mới(3).

Photo Hanoi ’25 là lần đầu tiên tôi làm việc trực tiếp với một kho lưu trữ thời thuộc địa thuộc Thư viện Quốc gia Pháp (BnF). Trong quá trình chuẩn bị triển lãm, tôi nhận thấy sự thiếu hụt thông tin chính thống từ các đơn vị trong nước về những bức ảnh lịch sử này. Dù Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I có ghi chép về giai đoạn này(4), thông tin về nhân vật hay sự kiện trong ảnh chỉ được tìm thấy qua các ghi chép rời rạc của BnF hoặc từ những cá nhân đam mê lịch sử Việt Nam đã dày công nghiên cứu và sưu tầm.

Hợp tác là yếu tố cốt lõi trong nỗ lực tái định hình. Các nhóm nghiên cứu kết hợp nhà nghiên cứu địa phương và quốc tế, hoặc từ cả bối cảnh thực dân và thuộc địa chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả tối ưu. Kho lưu trữ ảnh thường mang tính một chiều, phản ánh quan điểm của một số cá nhân và thực hành chuyên môn thời bấy giờ. Sự hợp tác không chỉ đem đến phản biện đa chiều mà còn bổ sung tài liệu từ người dân địa phương, báo chí hoặc du khách đương thời. Tất cả tạo thành một tổ hợp lưu trữ mở rộng, hé lộ những câu chuyện thay thế, lấp đầy khoảng trống và cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về quá khứ. 

Makét 01: Có một làng nghề nhiếp ảnh” của Hà Trang và Matca là một nỗ lực nghiên cứu nổi bật trong những năm gần đây, bổ sung những kiến thức và tư liệu quý giá, làm phong phú thêm hiểu biết về một giai đoạn lịch sử vốn chủ yếu được phản ánh qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia nước ngoài.

Ảnh: Matca 

Khuyến khích nghệ sĩ khai thác các kho lưu trữ nhiếp ảnh

Tái định hình đôi khi đòi hỏi chúng ta nhìn nhận và hiểu các kho lưu trữ theo cách mới, ngược lại với lối tư duy quen thuộc – và nghệ thuật tạo ra không gian cho điều đó.

Các thực hành của Êvar Hussayni (WANAWAL, 2019) hay Sasha Huber (Tailoring freedom, 2021-23), và nhiều nghệ sĩ đương đại khai thác kho lưu trữ nhiếp ảnh, giúp khôi phục những diễn ngôn bị bỏ qua bởi các thiết chế chính thống, góp phần mở rộng và làm giàu ký ức tập thể của những cộng đồng liên quan.

Việc khuyến khích và tạo điều kiện cho nghệ sĩ trong nước tiếp cận kho lưu trữ, đặc biệt là nhiếp ảnh, giúp các tác phẩm nghệ thuật tận dụng tính tự do trong biểu đạt – vốn vượt ngoài giới hạn của nghiên cứu học thuật – để phê bình thực hành lưu trữ hiện hành và làm rõ những khoảng trống cũng như thiếu sót.

Thư viện Nghệ thuật Phụ nữ Tây Á và Bắc Phi (WANAWAL), do Êvar Hussayni sáng lập vào năm 2019, là một hình thức lưu trữ thay thế – tồn tại như một thư viện vật lý lẫn kỹ thuật số. Thông qua việc tạo lập không gian và duy trì một thư viện trực tuyến nguồn mở, WANAWAL giữ cho các kho lưu trữ luôn luôn chuyển động– không ngừng được cập nhật nhờ những đóng góp từ các nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, giám tuyển và cộng đồng sáng tạo. Ảnh: Kurdish Cultural Center, The Lebanese Archive by Ania Dabrowska, Courtesy of the WANAWAL

Tailoring Freedom dựa trên những bức ảnh daguerreotype do Joseph T. Zealy (1812–1893) chụp, ghi lại hình ảnh Renty và con gái ông, Delia – cả hai đều bị ép chụp trong tình trạng không mảnh vải che thân, bị tước đoạt nhân phẩm và phẩm giá. Dùng nghệ thuật như một hình thức chữa lành các vết thương do chủ nghĩa thực dân để lại, Huber đã sao chép và in những bức ảnh này lên gỗ. Bà khoác cho Renty một bộ vest lấy cảm hứng từ trang phục của nhà hoạt động bãi nô Frederick Douglass (1818–1895), và cho Delia mặc một chiếc váy gợi nhớ đến Harriet Tubman (1849–1913), cũng là một biểu tượng của phong trào giải phóng nô lệ. Trong tác phẩm này, Huber sử dụng kỹ thuật bấm ghim như một hành động mang tính biểu tượng để hàn gắn – đồng thời tôn vinh những đóng góp to lớn của Douglass và Tubman. Bà đã trao tặng những bức chân dung này cho Tamara Lanier–hậu duệ đời thứ năm của Renty–và gia đình cô như một hành động tưởng nhớ và phục hồi phẩm giá. Ảnh: Sasha Huber, Tailoring Freedom –Renty and Delia, 2021. Ghim kim loại trên ảnh gỗ, 97 x 69 cm. Tác phẩm thuộc sở hữu của nghệ sĩ và Tamara Lanier. Hình ảnh gốc thuộc Bảo tàng Khảo cổ và Nhân học Peabody, Đại học Harvard (Renty, 35-5-10/53037; Delia, 35-5-10/53040).

Trưng bày gắn kết giáo dục và những cân nhắc đạo đức 

Yếu tố giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc định hình cách người xem tiếp nhận triển lãm. Các bảng thông tin và tour hướng dẫn cần cung cấp kiến thức chuyên sâu về lịch sử, văn hóa, đồng thời phân tích vai trò của nhiếp ảnh trong cấu trúc quyền lực thực dân và tác động của nó đến xã hội ngày nay. Chính vì vậy, việc tham vấn chuyên gia và cộng đồng được khắc họa trong ảnh là vô cùng cần thiết, đảm bảo họ giữ vai trò trung tâm trong việc định  hình nội dung.  

Các giám tuyển cũng nên cân nhắc trưng bày ảnh lưu trữ cùng các tác phẩm nghệ thuật đương đại của nghệ sĩ địa phương hoặc tài liệu lịch sử liên quan, nhằm thách thức những diễn ngôn thực dân và giành lấy quyền truyền đạt nội dung trong các bức ảnh. Điều này giúp kho lưu trữ vượt khỏi vai trò trưng bày, trở thành phương tiện truyền tải tri thức và khơi gợi đối thoại.

Ngoài ra, triển lãm cần tránh lãng mạn hóa hay hoài cổ hóa quá khứ thực dân. Việc trưng bày trong không gian tường trắng hay những sảnh triển lãm hiện đại, tráng lệ có thể khiến người xem chỉ chú trọng đến tính thẩm mỹ, trong khi giá trị lịch sử và tính giáo dục của kho lưu trữ lại bị lu mờ. Đồng thời, các không gian này cũng hạn chế khả năng tiếp cận của nhiều nhóm khán giả. Thay vì bó hẹp trong khung bảo tàng hay triển lãm truyền thống, hãy mở rộng sang những hình thức sáng tạo hơn — không gian mở, địa điểm phi truyền thống có kết nối trực tiếp với kho lưu trữ là một ví dụ. Điều này sẽ gia tăng sự tham gia của cộng đồng và làm phong phú hơn câu chuyện đằng sau mỗi bức ảnh.

TÁC GIẢ

Mai Nguyên Anh